HOME

Saturday, 25 January 2025

Ngũ Phụng Thư, Di Tích Triều Tây Sơn

 
Đô Đốc Bùi Thị Xuân

TT ĐNG ĐA

(Mng 5 tết Âm Lch)

Mồng năm Dân Nẫu hoan hô

Tưng bừng Hội Tết thoát nô giặc Tàu
Ai người Việt, hãy nhắc nhau
Chống Tàu là giữ đời sau an lành !

(Thơ Vivi)

QUANG TRUNG Diệt Quân Thanh Dẹp Lê Chiêu Thống

Sau khi lên ngôi Hoàng Đế (35 tuổi), ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Quang Trung xuất quân tiến ra Bắc Hà đánh quân Thanh.

Ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân (26 tháng 12 năm 1788), đại quân Tây Sơn tới Nghệ An tuyển quân và củng cố lực lượng.

Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân ra đến Tam Điệp. Quang Trung hẹn ba quân ngày mồng 7 Tết vào ăn tết ở Thăng Long.

Đêm 30 tháng Chạp âm lịch, quân Tây Sơn bắt đầu đánh diệt đồn Gián Khẩu. Sau đó hạ các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo và dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4, đến lượt thành Ngọc Hồi thất thủ.


Thế là chỉ trong vòng 6 ngày, quân Tây Sơn đã đánh tan quân Thanh.

Trưa ngày mồng 5 Tết (Kỷ Dậu, 1789), Hoàng Đế Quang Trung và quân Tây Sơn nhập thành Thăng Long giữa tiếng reo hò của thần dân Đại Việt.

                                             ___ ooOoo ___

TÂY SƠN NGŨ PHỤNG

Trong hàng tướng lĩnh của vua Quang Trung cũng có khá nhiều nữ tướng. Nổi bật hơn cả là 5 vị, thường gọi là “Tây Sơn ngũ phụng thư”.

Đứng đầu là:

Đô đốc Bùi Thị Xuân, tên rất quen thuộc trong sử sách. Bà Xuân người làng Xuân Hòa, nay thuộc xã Bình Phú, huyện Tây Sơn. Bà xinh đẹp, giỏi võ nghệ, thường sử dụng song kiếm.

Theo truyền thuyết, bà vào rừng săn bắn, giết chết trăn lớn cứu thoát con voi trắng là chúa đàn voi rừng nên được cả đàn voi thần phục. Bà còn đánh hổ cứu ông Trần Quang Diệu. Sau hai người thành gia thất, cùng phò giúp Nhà Tây Sơn, trở thành những tướng lĩnh trụ cột của vua Quang Trung. Bà Xuân được phong Đô đốc. Ông Diệu thành Đại tướng quân. 

Khi Quang Trung chết sớm bị Gia Long đánh bại Triều Tây Sơn rồi lên ngôi thì cho voi xé xát Đô Đốc Bùi Thị Xuân và con gái 15 tuổi, còn Quan Diệu bị chém đầu để trả thù. 


Đô đốc Nguyễn Thị Dung, người làng Phổ Lạc, nay thuộc xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Bà là em ruột quan Thái bảo Nguyễn Văn Xuân và là vợ Đô đốc Trương Đăng Đồ (người thôn Mỹ Khê, xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh). Trương Đăng Đồ vừa là văn thần vừa là võ tướng của Quang Trung.

Nữ tướng Huỳnh Thị Cúc, người làng Dương Quang, nay thuộc xã Đức Thắng, huyện Mộ Đức. Bà là em ruột Đô đốc Huỳnh Văn Thuận, một vị tướng giỏi của quân Tây Sơn.

Nữ tướng Bùi Thị Nhạn là con út của ông Bùi Đắc Lương, một nhà giàu ở thôn Xuân Hòa. Bà là cô họ của Đô đốc Bùi Thị Xuân nhưng tuổi cùng trang lứa. Theo tác giả “Nhà Tây Sơn” là Quách Tấn – Quách Giao thì “Bùi Thị Nhạn kết duyên cùng Nguyễn Huệ sau khi bà Phạm Thị Liên (vợ trước của ông) qua đời.”

Nữ tướng Trần Thị Lan là em ruột bà Trần Thị Huệ (vợ đầu của Nguyễn Nhạc), người thôn Trường Định, huyện Tuy Viễn. Bà rất giỏi võ nghệ, kiếm thuật, luyện thân đi nhẹ như chim én nên có tên hiệu Ngọc Yến. Bà là vợ Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết 

Năm vị tướng của "Ngũ Phụng Thư" đều rất giỏi võ, côn kiếm, có tài tổ chức và huấn luyện đạo tượng binh gồm hơn 100 thớt voi và 4 đạo nữ binh hơn 2000 người.

Mỗi thớt voi lại có một nữ binh điều khiển. Đô đốc Bùi Thị Xuân có biệt tài luyện voi chiến, làm quân Thanh thất đảm kinh hồn bởi đạo quân voi ấy. Bà còn sáng tạo ra thứ lương khô cho quân đi liên tục trong chiến dịch thần tốc chiếm lại Thăng Long – đó là bánh tráng. Có lẽ để ghi công bánh ấy mà dân Bắc Hà gọi là “Bánh Đống Đa”, lâu dần rút gọn thành “bánh đa” chăng?

Khi Nhà Tây Sơn lâm vào thế suy tàn, hai nữ tướng Bùi Thị Xuân và Huỳnh Thị Cúc cùng các nữ binh liều chết mở đường máu, phá tan vòng vây quân Nguyễn Ánh ở Đâu Mâu (Quảng Bình), đưa vua Cảnh Thịnh qua sông Nhật Lệ an toàn. Bà Huỳnh Thị Cúc đã anh dũng hy sinh tại đây.

Ngoài ra còn có nữ tướng Vũ Thị Đức, người ở Phù Ly (nay thuộc huyện Phù Mỹ). Bà Đức là con gái thứ hai Đô đốc Ân Quang hầu Vũ Đình Huấn. Trong chiến dịch đại phá quân Thanh xuân Kỷ Dậu 1789, bà Đức cùng cha chỉ huy quân Tây Sơn diệt đồn Gián Khẩu (Ninh Bình).

Sau khi diệt xong đồn, bà Đức cưỡi voi thúc quân truy kích địch. Con voi của bà bị sa xuống bãi lầy thuộc thôn Thượng Hòa, xã Gia Thanh, huyện Hoa Lư không lên được. Bà Đức đã tử trận cùng con voi. Sau này, dân địa phương lập đền thờ nữ tướng Vũ Thị Đức gần nơi bà hy sinh. Nay đền thờ đã hư hỏng, chỉ còn một miếu nhỏ.

Bà Võ Thị Thái quê ở xã Bình Chương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Bà là em ruột Đô đốc Võ Thông. Bà Thái là Đô đốc kỵ binh, chỉ huy việc vận chuyển quân trang, khí cụ, lương thực từ Vị Hoàng (Nam Định) đến mặt trận Ngọc Hồi (Thường Tín, Hà Tây) trong chiến dịch giải cứu Thăng Long xuân Kỷ Dậu. Bà chẳng may bị trúng đạn, tử thương tại chiến trường.

Nhắc lại vài nét lịch sử của các vị nữ tướng thời Tây Sơn, để thấy truyền thống anh hùng bất khuất của phụ nữ Việt Nam, từ Bà Trưng, Bà Triệu đến nay, thời nào cũng sản sinh lắm những nữ dũng tướng tài ba.

Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, góp công xứng đáng vào sự nghiệp dựng nước, giữ nước của dân tộc ta.

                                             ___ ooOoo ___

DI TÍCH TÂY SƠN

Tây Sơn là dãy núi phía Tây tỉnh Bình Định thuộc hệ thống Trường sơn. Nằm trọn trong phần đất ba quận Vĩnh thạnh, Cam túc, Bình khê hiện tại. Tây Sơn làm ranh giới cho tỉnh Bình Định ở phía đông và Pleiku, Kontum ở phía tây.

Dãy núi An lão và Kim sơn cũng thuộc hệ thống Trường sơn, cũng nằm phía tây tỉnh Bình Định (ở phía bắc) và cũng dính liền với dãy Tây Sơn (ở phía nam) nhưng không mang danh Tây Sơn. Bởi vì cổ nhân lấy tỉnh lỵ làm điểm đứng ngắm. Tỉnh lỵ Bình Định trước kia là thành Ðồ Bàn ở Nam an, Bắc thuận (An nhơn), thời gần đây là thành Bình Định ở An ngãi, Liêm trực (An nhơn), và hiện nay là Qui Nhơn. Ðứng trong ba nơi này mà trông thì dãy Tây Sơn nằm hẳn về chính tây, còn hai dãy Kim sơn và An lão nằm về tây bắc. Tên Tây Sơn đã có từ lâu.

Vì núi mệnh danh là Tây Sơn, nên các vùng sơn cước, bình nguyên ở chung quanh cũng gọi là vùng Tây Sơn. Trước kia gọi là Ấp Tây Sơn.

Ấp Tây Sơn gồm có ba phần:

1. Tây Sơn Thượng gồm toàn cõi An khê thuộc quận An túc hiện nay, lấy đèo An khê làm ranh giới.
2. Tây Sơn Trung gồm phần đất đai thuộc quận Vĩnh thạnh hiện nay, tức từ đèo An khê đến địa đầu Hữu giang, Tả giang.
3. Tây Sơn Hạ gồm đất đai từ Hữu giang, Tả giang đến An chính, tức là phần đất quận Bình khê hiện nay.

Ấp Tây Sơn xưa kia thuộc huyện Tuy viễn (đất Ðồ Bàn sau khi trở thành đất Việt Nam thì chia làm ba huyện: Bồng sơn, Phù ly, Tuy viễn). Tên ấp bị bỏ từ đời Gia Long. 

CÁC NGỌN NÚI CÓ LIÊN HỆ MẬT THIẾT ÐẾN NHÀ TÂY SƠN

Ở bắc ngạn sông Côn có hòn Trung sơn, nằm trong địa phận thôn Phú lạc (chánh quán của Tây Sơn tam kiệt).

Ở nam ngạn sông Côn có những núi:

Núi HOÀNG ÐẾ, núi HIỂN HÁCH ở quận An túc Ðèo An khê.

Núi Ông Bình, núi Ông Nhạc ở phía đông đèo An khê.

Núi Tâm phúc, núi Lãnh lương, hòn Hoành sơn, hòn Ấn, hòn Kiếm nằm dọc theo quốc lộ 19, từ núi Ông Nhạc xuống đến thôn Trinh tường, xã Bình tường, quận Bình khê.

Từ Tiên thuận trở xuống, dọc theo con sông Côn, đến Hữu giang, Phú lạc núi vẫn nối liền nhau, quanh co khúc khuỷu. Nổi danh nhất là hòn TRUNG SƠN. Hòn Trung sơn thuộc thôn Phú lạc, quê hương của tam kiệt nhà Tây Sơn và anh hùng Mai Xuân Thưởng. Núi không lấy làm cao (422 thước) nhưng trông rất khôi hùng. Trông gần thì mập mạp hung hăng như con bò đực sung sức lúc nào cũng sẵn sàng để chiến đấu. Nên người địa phương thường gọi là hòn SUNG. Lưng núi có nhiều chỗ nổi từng vồng từng ụ, như bị đánh sưng. Nên nhiều người gọi là hòn SƯNG thay vì hòn Sung. Núi còn có tên nữa là ÐỘC XỈ SƠN và ÐỘC NHŨ SƠN, vì ở xa, nếu đứng xiên một phía mà trông thì giống như một chiếc răng nanh dựng ngược, còn đứng trước mặt mà ngó thì tương tợ một nấm vú vun (. Do đó núi lại có tên nữa là BÚT SƠN. HÒN SUNG là tổ sơn trong vùng hữu ngạn. Mặt hướng về đông nam và lấy dãy Sơn Triều sơn ở Cầu Gành, thuộc An nhơn làm Tiền án, và long mạch chạy xuống hướng đông đến hòn Mạ Thiên sơn tục gọi là hòn Mò O ở giữa An nhơn và Phù cát, thì hồi cố. Phía trước mặt và hai bên tả hữu,gò đống nổi đầy, cuồn cuộn nhấp nhô như sóng biển. Và những ngọn núi chung quanh đều xây mặt về triều củng, như các vị đại thần đứng chầu một đấng anh quân. Còn gò đống kia là quân lính dàn hầu. Ðến viếng Hòn Sung, một du khách có để lại mấy câu rằng: 

Hòn Sung tuy thấp mà cao
Trời cho làm chốn anh hào lập thân
Kìa ai áo vải cứu dân
Kìa ai ba thước gươm thần chống Tây
Chuyện đời rủi rủi may may
Hòn Sung cây trải đá xây bao sờn
 

Trên đỉnh hòn Sung có một vùng đá hình chữ nhật, bằng phẳng, bên cạnh có hai tảng đá vuông vức chồng lên nhau. Người ta bảo đó là “Mả mẹ chàng Lía”. Truyền rằng mẹ chàng Lía lâm chung tại hòn Chớp Vàng thôn Phú phong. Lía muốn đưa hài cốt đến táng nơi hòn Sung cách đến 5 cây số về hướng bắc, bèn lên đỉnh núi, đầu đội quan tài mẹ, một tay vịn, một tay nắm chiếc mâm đồng ngắm phía hòn Sung mà vút mạnh. Chiếc mâm vụt bay. Liá liền nhảy theo đứng trên mâm, rồi lấy thế nhảy vọt đến hòn Sung. An táng mẹ xong, lía rinh đá khối xây mộ, và chồng hai tảng đá bên mồ để ngồi khóc mẹ.

Do đó người địa phương còn gọi hòn Sung là hòn “Mả Mẹ Chàng Lía”. Sau lưng và phía tả phía hữu của hòn Sung, có nhiều ngọn núi không cao nhưng hiểm trở. Như hòn HÀNH SƠN tục gọi là Dốc Dài nối liền hòn Sung và hòn VINH ÐO tức hòn Dồ ở Hữu giang. Nhưng đặc sắc hơn hết là hòn ÐÁ DÀN, tên chữ là DƯƠNG THẠCH SƠN.

…!!!...

Vivi Sưu Tầm

 


No comments:

Post a Comment