Phân tích nguyên nhân đa tầng dựa trên tài liệu giải mật
Đảo chính 1–2/11/1963 từ lâu vẫn được kể như một “biến cố chính trị” hay “một thay đổi chế độ”. Nhưng khi soi dưới ánh sáng của các tài liệu giải mật (FRUS 1961–63, Pentagon Papers, White House Tapes…), biến cố ấy mang bản chất của một cuộc đụng độ chiến lược: giữa một quốc gia nhỏ muốn bảo vệ chủ quyền và một siêu cường muốn điều hành cuộc chiến theo khuôn mẫu tiên tiến phi pháo bom đại hỏa lực nhà giàu của họ.
I. KHI CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA VA CHẠM Ý CHÍ SIÊU CƯỜNG
Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, không biến cố nào mang tính bước ngoặt như cuộc đảo chính ngày 1 và 2, tháng 11 năm1963. Đây không chỉ là sự sụp đổ của một chính phủ; nó là sự đứt gãy của một mô hình chiến tranh, một tầm nhìn chiến lược, và là sự va chạm sâu sắc giữa hai quan niệm điều hành quốc gia: chiến tranh nhân dân theo kiểu Việt Nam Cộng Hòa dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm và chiến tranh quy ước – can thiệp trực tiếp theo mô hình Mỹ dưới thời Tổng Thống John F. Kennedy.
Các tài liệu FRUS (Foreign Relations of the United States) 1961- 1963 – CIA – PENTAGON PAPERS – KENNEDY TAPES (White House) cho thấy:
Mỹ không lật Diệm vì Diệm thân Mỹ, mà vì Diệm không chấp nhận để Mỹ điều hành chiến tranh Quốc- Công tại Việt Nam. Biến cố ấy mang bản chất của một cuộc đụng độ chiến lược: giữa một quốc gia nhỏ muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia của mình và một siêu cường muốn điều hành cuộc chiến theo khuôn mẫu hiện đại của Mỹ.
Tổng thống Ngô Đình Diệm không bị lật đổ vì độc tài, vì gia đình trị, hay vì đàn áp tôn giáo, vì đó chỉ là những yếu tố gần, yếu tố bề nổi. Còn yếu tố gốc rễ nằm sâu hơn bên dưới của tảng băng chìm,
2. NGUYÊN NHÂN GỐC RỄ MÂU THUẪN CHIẾN LƯỢC MỸ – DIỆM (1961–1963):
2.1. Ngay từ khi Kennedy nhậm chức 1961, bất đồng chiến lược Mỹ- Việt đã xuất hiện
Chú thích: FRUS, Vietnam, 1961–63, Vol. I, doc. 18; doc. 32.
- Tổng Thống Kennedy muốn tăng số cố vấn quân sự Mỹ từ 900 lên hơn 12.000 người. Washington chủ trương “tăng can dự vào chiến tranh” và muốn tiến đến “quốc tế hóa chiến tranh”.
- Ngược lại, Tổng thống Diệm nhiều lần nói rõ với phái đoàn Mỹ:
“Việt Nam phải tự thắng, chứ không thể nhờ người khác đánh thay mình.”
(Bản ghi FRUS, cuộc gặp Diệm–Durbrow 1961)
2.2. Việt Nam Cộng Hòa cần viện trợ, nhưng không cần quân Mỹ tham chiến – để tránh lặp lại vết xe đổ của Pháp 1946–1954 khi quốc gia Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp, do pháp còn đô hộ.
2.3. Văn hóa chính trị của hai bên Việt- Mỹ chạm vào giới hạn không thể dung hòa: Diệm đã từ chối nhường quyền chỉ huy chiến tranh cho Mỹ. Còn Kennedy thì không thể chấp nhận một đồng minh cứng đầu cứng cổ “không chịu nghe lời”.
2.4. Cuộc khủng hoảng Phật giáo chỉ là chất xúc tác, là chiếc “ngòi nổ” – còn thuốc nổ đã được nén chặt từ trước. Vì ngay từ năm 1961, phái đoàn Mỹ liên tục thúc ép chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cho phép:
- Tăng cố vấn quân sự
- Điều khiển hành quân
- Can thiệp trực tiếp vào chiến lược an ninh – quốc phòng.
Ngược lại, Tổng thống Diệm nhất quán:
“Việt Nam phải tự thắng. Không ai có thể thắng giùm chúng ta.”
Lập trường này có thể bị xem là cứng đầu, nhưng về mặt chiến lược, nó hoàn toàn đúng: Một dân tộc không thể dựa vào lính ngoại quốc để chống lại một cuộc nội chiến Quốc- Cộng, Nam Bắc Việt Nam mà chiến tranh du kích có tính chất chính trị – văn hóa hơ cả quân sự.
3. Ấp Chiến Lược vs. Search and Destroy: Hai mô hình chiến tranh đối nghịch
Chú thích: Pentagon Papers, Book 2, “Strategic Hamlet Program”; FRUS Vol. II.
Ấp Chiến Lược do ông cố vấn Ngô Đình Nhu (kèm theo cố vấn Trần Kim Tuyến, Ngô Trọng Hiếu) thiết kế, nhằm “tách cá khỏi nước”, kiểm soát dân cư, triệt hạ chỗ dựa của du kích tại thôn quê ban đêm, do Kế Hoạch Phượng Hoàng đã có nhiều kết quả thắng lợi
Bộ Quốc phòng Mỹ ban đầu đánh giá cao, nhưng muốn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa khai triển hành quân quy mô lớn, theo mô hình: “tìm – diệt – nắm địa bàn – chuyển giao cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”.
Pentagon Papers viết: “Nhu và Diệm nhất quyết không để Mỹ trực tiếp chỉ huy hành quân. Đây là bất đồng cơ bản khiến Washington thất vọng.”
(Pentagon Papers, Vol. II, tr. 54)
Nói cách khác:
Diệm muốn chiến tranh nhân dân theo kiểu nhà nghèo; Mỹ muốn chiến tranh hỏa lực theo kiểu nhà giàu. Mâu thuẫn này là nguyên nhân gốc rễ dẫn đến đảo chính ngày 1 và 2 tháng 11 năm 1963.
4. CIA liên tục báo cáo về cái gọi là gia đình trị “family rule” (1961–63)
Chú thích: CIA Special Report, 1962; CIA Memorandum, July 1963.
4.1. CIA than phiền:
- Ảnh hưởng của ông Ngô Đình Nhu đối với an ninh và quân đội
- Bà Trần Lệ Xuân gây phản ứng dư luận
- Ngô Đình Cẩn có “thẩm quyền quá lớn” tại miền Trung
- Bổ nhiệm nhân sự dựa trên trung thành nhiều hơn chuyên môn quân sự, hành chánh
4.2. Nhưng các báo cáo cũng thừa nhận:
“Mô hình điều hành của Diệm mang tính chính trị- văn hóa Á Đông. Người Mỹ không đủ hiểu để đánh giá.”
(CIA Report, “Patterns of Vietnamese Governance”, 1963)
Nói cách khác, Mỹ khó chịu không phải vì Diệm độc tài, gia đình trị, mà vì họ không kiểm soát được Diệm- Nhu.
5. Xung đột lớn nhất: Mỹ muốn quyền điều hành chiến tranh toàn diện
Chú thích: NSC Meeting Minutes, Feb–Aug 1963.
Trong các biên bản NSC năm 1962–63 ghi rõ:
- Mỹ muốn đòi quyền quyết định chiến lược
- Mỹ muốn chọn nhân sự quân đội
- Mỹ muốn Việt Nam Cộng Hòa mở rộng chiến trường sang Lào và Campuchia
- Mỹ muốn kiểu chiến tranh “quy ước – hợp đồng quân sự”
5.1. Tài liệu FRUS ghi nhiều lần rằng các cố vấn Mỹ coi Diệm – đặc biệt là ông Nhu – là chướng ngại vật trên đường “quốc tế hoá chiến tranh”. Chính vì vậy, từ giữa 1963, nhiều bản phúc trình đã đề nghị:
- Thay đổi lãnh đạo
- Loại bỏ ông Nhu
- Cô lập các phe trung thành với Diệm-Nhu.
Vì thế, quyết định lật Diệm đã được hình thành trong nội bộ Washington trước cả khi khủng hoảng Phật Giáo nổ ra.
5.2. Trong khi Việt Nam Cộng Hòa lo ngại:
- Mất chính danh
- Dân coi chế độ như “tay sai ngoại bang”
- Bắc Việt khai thác tuyên truyền “chống Mỹ cứu nước”
- Mỹ muốn biến Việt Nam Cộng Hòa thành “tiền đồn thí nghiệm chiến tranh”
5.3. Hồ sơ FRUS (Vol. III) ghi:
“Diệm tin rằng cho Mỹ quyền điều hành chiến tranh là tự sát chính trị.”
(FRUS 1963, doc. 212)
Đây là nguyên nhân sâu nhất, ít khi báo chí nói đến, nhưng khi tài liệu được giải mật (40 năm sau) đã chứng minh sự thật rõ như vậy.
6. KHỦNG HOẢNG PHẬT GIÁO 1963: CHẤT XÚC TÁC TRỰC TIẾP
Người Mỹ không hiểu – hoặc cố tình không hiểu – bản chất của Phật Giáo Việt Nam thập niên 1960 ở Huế, Phật Giáo có cấu trúc chặt chẽ, gắn với truyền thống cung đình, dòng họ và cũng là nơi bị cộng sản xâm nhập mạnh nhất từ năm 1945.
6.1 Vụ nổ súng đài phát thanh Huế (8/5/1963)
Chú thích: CIA Memorandum, March 1964; FRUS 1963, doc. 152.
Đây là biến cố bi thảm nhưng chưa bao giờ được kết luận minh bạch ai nổ trước. CIA về sau (1964) ghi rõ: “Không có chứng cứ rằng chính quyền cố ý đàn áp tôn giáo.”
Nhưng truyền thông quốc tế thiên tả đã dựng thành câu chuyện “kỳ thị”, và Washington dùng nó như chứng cớ chính trị để biện minh cho việc thay đổi chế độ.
Từ đó, chính quyền Kennedy kết luận Diệm “không thể giải quyết khủng hoảng theo hướng chính trị”.
6.2. Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11/6/1963
Chú thích: Malcolm Browne Dispatch; Kennedy Tapes, June 12, 1963.
Hình ảnh lan khắp thế giới. Kennedy nói: “Không ảnh nào trong lịch sử ngoại giao làm tôi xáo động như vậy.” (Kennedy Tape, 12/6/1963)
7. Mỹ đánh giá: “Diệm không kiểm soát được ông Nhu”
Chú thích: CIA, Special National Intelligence Estimate (SNIE) July 1963.
SNIE 1963 kết luận:
“Nhu điều hành cuộc khủng hoảng theo hướng đối đầu.”
“Ảnh hưởng của Nhu khiến Diệm mất khả năng uyển chuyển.”
Đây là nhận định sai lệch nhưng đã trở thành cơ sở quyết định chính sách.
7.1. Chiến dịch Nước Lũ ngày 20/8/1963: Sai lầm chiến lược hay kế hoạch bị xuyên tạc?
Chú thích: FRUS, Aug 1963; Pentagon Papers, ch. “Pagoda Raids”.
Cuộc bố ráp chùa chiền – thực chất nhằm tách các “ổ chính trị” ra khỏi Tăng Đoàn – bị Mỹ coi là bằng chứng Diệm “không còn khả năng cai trị”.
7.2. Đúng 4 ngày sau, Washington gửi Điện văn 243, văn kiện bật đèn xanh cho đảo chính.
Mỹ xem đây là bằng chứng cuối cùng rằng:
- Chính quyền Diệm quá cứng rắn
- Tình hình không thể đảo ngược nếu Diệm và Nhu còn tại vị
Hội đồng An ninh quốc gia Hoa Kỳ họp khẩn.
Bốn ngày sau – Điện văn 243 được gửi đi.
8. ĐIỆN VĂN 243 ngày 24/8/1963: LỆNH BẬT ĐÈN XANH CHO ĐẢO CHÍNH
Chú thích chính: FRUS 1963, Vol. IV, doc. 300 (“Telegram 243”).
Điện văn 243 nói ba điều:
- Diệm phải loại bỏ ông Nhu
- Cabot Lodge được quyền tiếp xúc với các tướng đảo chính
- Mỹ sẽ không bảo vệ Diệm- Nhu nếu đảo chính xảy ra
8.1 Tướng Trần Văn Đôn viết:
“Không có Điện văn 243, chúng tôi không dám động thủ.”
(Trần Văn Đôn, Hồi ký)
8.2. Đây là điểm ngoặt của lịch sử Việt nam.
9. ĐẠI SỨ CABOT LODGE – KIẾN TRÚC SƯ THỰC TẾ CỦA CUỘC ĐẢO CHÍNH
9.1. Cabot Lodge đến Sài Gòn với sứ mạng thay đổi chế độ
Chú thích: National Security Files, “Instructions to Ambassador Lodge”.
Kennedy muốn Cabot Lodge:
- Tạo áp lực tối đa lên Diệm
- Khuyến khích tướng lãnh hành động đảo chính
- Đảm bảo Mỹ đứng ngoài nhưng “kết quả đảo chính sẽ thành công”
9.2. Lodge cô lập các lực lượng trung thành với Diệm
Chú thích: CIA Saigon Station Diary, Oct–Nov 1963.
CIA ghi rõ: “Phải giữ các đơn vị trung thành nhất của quân đội không được về cứu Tổng thống.”
- Tướng Minh – Đôn phối hợp với CIA
- Tách các đơn vị Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Thiết Giáp, Bảo An, Cảnh Sát Đặc Biệt trung thành với Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi Thủ Đô Saigon
- Kiểm soát di chuyển quốc lộ 1
- Ngăn mọi lực lượng trung thành về cứu ứng Sài Gòn
Do đó, việc BĐQ Dục Mỹ chúng tôi bị chặn ở đèo Rù Rì, Ninh Hòa, Nha Trang, hoàn toàn khớp với tài liệu trên. Ngay cả khi đảo chính đã sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm ông cố vấn Ngô Đình Nhu, BĐQ Dục Mỹ chúng tôi vẫn còn bị di chuyển đến Đà Lạt, cầm chân tại đó cả tuần lễ, rồi mới được di chuyển trở về lại Trung tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ.
9.3 Đó là lý do tại sao đảo chính thắng nhanh như vậy, chỉ chưa đầy 2 ngày 1- 2/11/63.
10. Đại Sứ Cabot Lodge từ chối nghe điện thoại của Tổng thống Diệm đêm 1/11
Chú thích: White House Tapes – Lodge Reports, Nov 1, 1963.
Diệm gọi hai lần.
Lodge không bắt máy.
Chỉ nhắn lại: “Tổng thống nên làm việc với quân đội.”
10.1. Đó là thời khắc Mỹ xác nhận chọn đứng về phe đảo chánh và bảo đảm an ninh an toàn cho phe đảo chính
10.2. Trong báo cáo gửi Washington, Lodge nhấn mạnh:
- “Cuộc đảo chính sẽ thành công.”
- Sự bảo đảm này khiến biến cố đi đến kết cục nhanh chóng.
11. THẢM SÁT DIỆM–NHU TRONG THIẾT VẬN XA M113: MỆNH LỆNH NGẦM VÀ CÁI CHẾT TẤT YẾU
11.1. Chứng cứ về người ra lệnh
Chú thích: Tường trình tướng Minh – tướng Đôn; Báo cáo của Conein; FRUS doc. 321.
- Tướng Minh nói với Conein: “Ils sortiront morts.” – “Họ sẽ ra khỏi đó trong tình trạng chết.”
- Tướng Đôn khai: “Nhung đã làm quá tay.” (nhưng chứng lý này không thuyết phục)
- Đại tá Tung khai tại tòa: “Lệnh từ tướng Minh.”
11.2. FRUS ghi lại:
“The generals have no intention of keeping Nhu alive.” Các tướng lĩnh không có ý định giữ Nhu sống (FRUS doc. 321, 1963)
11.3 Kết luận Tướng Dương Văn Minh ra lệnh giết Diệm- Nhu, CIA biết trước nhưng không can thiệp.
12. VÌ SAO NGÔ ĐÌNH CẨN BỊ GIAO CHO PHE ĐẢO CHÍNH?
Chú thích: US Consulate Huế Report, Nov 1963.
Điều này đập tan luận điệu “Mỹ không muốn giết Diệm”.
Lãnh sự quán Mỹ tại Huế thừa nhận:
- Tân chính quyền đòi giao Cẩn
- Cabot Lodge chấp thuận
- và từ chối cho ông Cẩn sang Mỹ tị nạn.
12.1 Cabot Lodge chọn phương án “đóng hồ sơ Diệm” để tránh mọi di sản chính trị của Đệ Nhất Cộng Hòa.
12.2. Cẩn bị giao nộp cho he đảo chính – và bị xử tử.
Đó là bằng chứng rõ nét nhất chứng tỏ Mỹ đã chọn giải pháp “đóng kín hồ sơ Diệm”.
13. TỔNG HỢP NGUYÊN NHÂN CHÍNH XÁC NHẤT
13.1. Nguyên nhân gốc (structural):
- Mâu thuẫn chiến lược
- Mỹ muốn điều hành chiến tranh
- VNCH muốn giữ chủ quyền
13.2. Nguyên nhân trực tiếp (proximate):
- Khủng hoảng Phật giáo
- Tự thiêu ngày 11/6
- Chiến dịch Nước Lũ 20/8
13.3. Yếu tố kích nổ (trigger):
- Điện văn 243
- Lodge cô lập Diệm và các lực lượng quân sự trung thành với Việt Nam Cộng Hòa
- CIA bảo đảm an toàn cho phe đảo chính
14. Kết quả:
- Diệm–Nhu bị giết
- Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ
Tiền đề cho sự can thiệp quân sự trực tiếp của Mỹ đổ quân vào Khe Sanh (1965)
- 58.000 lính Mỹ tử trận
- Hàng triệu người Việt Quốc- Cộng chết
- hàng chục cuộc cách mạng, chỉnh lý của các tướng lãnh phản loạn làm kiệt quệ nền Đệ Nhị Cộng Hòa
- Phật Giáo Ấn Quang bị đàn áp khốc hơn thời Đệ Nhất Cộng Hòa
- Ấp Chiến lược “tách cá ra khỏi nước mà Cộng Sản nằm vùng sợ nhất được đổi thành Ấp Tân Sinh và dần dần tự hủy
- Chủ quyền quốc gia bị tàn lụi
- Yếu kém dần thành bi kịch 30/4/1975. Chỉ trong vòng ngắn ngủi có 12 năm, kể từ năm 1963- 1975!
15. Tóm lại
Cuộc đảo chính 1–2/11/1963 không thể hiểu như một “tai nạn chính trị”, càng không thể giản lược thành câu chuyện của một cá nhân, một gia đình hay một biến cố tôn giáo. Khi đặt toàn bộ hồ sơ vào bối cảnh thế giới thời Chiến tranh Lạnh và đọc lại các tài liệu FRUS, CIA, Pentagon Papers, Kennedy Tapes, người ta thấy rõ: Đây là điểm gãy của hai tầm nhìn chiến lược, của hai ý chí không thể dung hòa.
Đối với Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa là một tiền đồn chống cộng của thế giới tự do, và cuộc chiến ở Đông Dương phải được điều hành theo mô hình quân sự – kỹ thuật của Washington.
Nhưng đối với Tổng thống Ngô Đình Diệm và các cộng sự, cuộc chiến ấy trước hết là cuộc chiến về chính nghĩa, về xã hội nông thôn, về tâm lý dân tộc – một cuộc chiến mà, nếu để người ngoại quốc chỉ huy, thì chính danh của chế độ sẽ sụp đổ từ bên trong. Hai mô hình chiến tranh – “chiến tranh nhân dân” và “chiến tranh hỏa lực” – đã xung đột ngay từ đầu nhiệm kỳ Kennedy, và càng về cuối 1963 thì càng không thể thỏa hiệp giữa hai bên.
Khủng hoảng Phật giáo, bất kể tính chất phức tạp và mức độ bị xuyên tạc, chỉ là chất xúc tác. Những nguyên nhân sâu xa đã tích tụ từ 1961. Và Điện văn 243 là nhát gạt cuối cùng, tách chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi sự bảo hộ của đồng minh Mỹ lớn nhất. Từ khoảnh khắc ấy, cuộc đảo chính chỉ còn là vấn đề thời gian.
Cái chết của hai ông Diệm – Nhu trên thiết vận xa M113 là bi kịch cho cả một thế hệ. Nó mở đầu cho một chuỗi bất ổn lãnh đạo kéo dài nhiều năm, làm tan rã bộ máy chính trị từng được xây dựng công phu từ năm 1955, và tạo điều kiện cho sự leo thang quân sự của Mỹ dẫn tới việc đưa lính chiến đấu Mỹ vào Việt Nam (1965). Chính Kennedy – người đã bật đèn xanh cho đảo chính – cũng không còn sống để chứng kiến hậu quả mà nước Mỹ phải trả giá trong suốt một thập niên sau đó.
Nhìn lại toàn cục, đảo chính 1–2/11/1963 là bài học lớn về giới hạn của sức mạnh siêu cường, về cái giá của việc áp đặt chiến lược lên một quốc gia có lịch sử – văn hóa – tâm lý riêng, và cũng là lời nhắc nhở cho mọi thời đại rằng chủ quyền quốc gia – dù nhỏ bé – không thể mua bán bằng viện trợ quân sự hay áp lực ngoại giao.
Cuối cùng, cuộc đảo chính ấy không chỉ kết thúc một chế độ. Nó kết thúc một mô hình phát triển chính trị – xã hội mà Tổng thống Ngô Đình Diệm và các cộng sự đã cố gắng xây dựng trong tám năm đầy biến động. Lịch sử có quyền phán xét, nhưng phán xét ấy phải dựa trên sự thật của tài liệu giải mật – chứ không phải trên những huyền thoại tuyên truyền của bất cứ phía nào.
Sau bảy thập niên, khi nhìn lại, người ta không thể không nhận ra: sự sụp đổ của Đệ Nhất Cộng Hòa đã mở đầu cho sự sụp đổ lớn hơn – không chỉ của một thể chế, mà của một cơ hội. Một cơ hội mà nếu được giữ vững, rất có thể đã thay đổi toàn diện cục diện chiến tranh Việt Nam.
Diễn Đàn Kitô- hữu
25- 11- 05

No comments:
Post a Comment