Ý NGHĨA TAM QUYỀN PHÂN LẬP
Tam quyền phân lập (trias politica): Gồm có ba quyền của nhà nước là "lập pháp, hành pháp, và tư pháp" được phân chia cho ba cơ quan độc lập nắm giữ. Khái niệm này lần đầu được nghiên cứu và đề cập bởi John Locke và sau đó là Charles de Secondat, Nam tước de Montesquieu trong tác phẩm nghiên cứu về lý thuyết nhà nước Tinh thần pháp luật năm 1748. Theo Montesquieu, để bảo đảm sự tự do thì ba cơ quan này phải hoạt động độc lập.
Hình thức "phân lập": Thể hiện khác nhau giữa các quốc gia. Nước Hoa Kỳ, Tổng thống nắm giữ quyền hành pháp mà độc lập với cơ quan lập pháp là lưỡng viện Quốc hội. Nước Đức, tổng thống hầu như là chức vụ mang tính nghi thức, Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, Chính phủ và Thủ tướng là cơ quan được ủy quyền hành pháp được Quốc hội bầu cử. Nước Pháp, Tổng thống là người nắm nhiều quyền, Tổng thống chi phối mạnh mẽ Thủ tướng và Chính phủ và có quyền chọn Thủ tướng, nhưng Quốc hội có quyền bãi miễn Thủ tướng. Vương quốc Anh bao gồm ba nhánh là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nghị viện là cơ quan lập pháp gồm Hạ viện và Thượng viện. Chính phủ là cơ quan có quyền lực cao nhất trong hệ thống chính trị và đứng đầu bởi thủ tướng. Vua chỉ là tượng trưng đạo đức cho toàn dân.
Khái niệm phân lập: Quyền lực được hiểu không chỉ theo chiều ngang như trên mà còn được hiểu theo chiều dọc. Nghĩa là việc phân quyền giữa chính quyền địa phương, chính quyền tỉnh/bang, và chính quyền trung ương hay nhà nước, hoặc các tổ chức cao hơn nhà nước (ví dụ Liên minh châu Âu), đây được gọi là là nguyên tắc bổ trợ (subsidiarity).
A- QUÁ TRÌNH THÀNH HÌNH
Lý thuyết về sự phân chia quyền lực, được đề cập bởi triết gia cổ đại Aristoteles hay Polybios. Nhưng không được thực hiện, cho đến thời kỳ La Mã dưới hình thức nhà nước trong các Cộng Hòa La Mã.
Thế kỷ 17-18, các nhà tư tưởng người Anh John Locke và người Pháp Montesquieu mới đề cập đến mô hình "Tam Quyền Phân Lập" trong các tác phẩm và phát triển tư tưởng về thể chế chính trị tự do để chống chuyên chế. Montesquieu xây dựng học thuyết phân quyền với mục đích tạo dựng những thể chế chính trị bảo đảm tự do cho các công dân.
Theo ông, tự do chính trị của "Công Dân" là quyền mà người dân có thể làm tất cả sự việc mà pháp luật không cấm. Pháp luật là thước đo của tự do. Cũng như John Locke, Montesquieu cho rằng thể chế chính trị tự do là thể chế mà trong đó "Quyền Lực Tối Cao" được phân chia thành ba quyền là "lập pháp, hành pháp và tư pháp".
- Lập pháp: là thể hiện ý chí chung của quốc gia. Nghĩa là thuộc về toàn thể người dân, được trao cho hội nghị đại biểu quốc dân là Quốc hội thiết lập.
- Hành pháp: là việc thực hiện luật pháp đã được thiết lập bỡi Quốc Hội.
- Tư pháp: là để trừng trị tội phạm và giải quyết sự xung đột giữa các cá nhân. Các thẩm phán được lựa chọn từ dân và xử án chỉ tuân theo pháp luật.
Tư tưởng phân quyền của Montesquieu là đối thủ đáng sợ của chủ nghĩa chuyên chế phong kiến. Ông là người đã phát triển và hoàn thiện thuyết "tam quyền phân lập". Học thuyết về sự phân chia quyền lực gắn liền với lý luận về pháp luật để chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của nhà vua thời Phong Kiến.
Sự thành hình chế độ tư bản, nguyên tắc "phân chia quyền lực" đã trở thành một trong những nguyên tắc chính của chủ nghĩa lập hiến. Lần đầu tiên được thể hiện trong các đạo luật mang tính hiến định của cuộc Cách mạng Pháp và sau đó thể hiện đầy đủ trong Hiến pháp Hoa Kỳ 1787.
Học thuyết pháp luật - chính trị (thuyết "phân quyền") với quyền lực nhà nước được hiểu không phải là một thể thống nhất. Đó là sự phân chia thành ba quyền là quyền "Lập pháp - Hành pháp - Tư pháp", các quyền này được thực hiện độc lập với nhau. Nghĩa là kiểm soát lẫn nhau, kiềm chế lẫn nhau. Trên thực tế, việc phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước được áp dụng khác nhau trong hệ thống các nước cộng hoà tổng thống. Theo nguyên tắc "kiềm chế và đối trọng", tức là các quyền kiểm tra và giám sát lẫn nhau, tạo ra sự cân bằng giữa các quyền.
B- CÁC QUAN ĐIỂM
Trước khi chế độ Dân Chủ hiện đại xuất hiện, mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào trong tay một cá nhân, hay một đảng duy nhất. Đây là nguyên nhân cho mọi hành vi độc tài, chuyên chế của nhà nước. Vì vậy, muốn phản lại chế độ này, được lý thuyết về nhà nước mà nhiều nhà tư tưởng phát triển là thuyết phân chia quyền lực.
Nguồn gốc của tư tưởng phân quyền đã có từ thời cổ đại ở Phương Tây mà điển hình là nhà nước cộng hòa La Mã. Nhà nước Cộng hoà La Mã có các quan chức (đứng đầu là hai quan chấp chính) được bầu hàng năm bởi nhân dân. Viện Nguyên lão quản lý pháp luật, nghị định được ban hành bởi Hội nghị quốc dân, ban hành nghị quyết về những vấn đề quan trọng. Để cùng với các quan chấp chính giải quyết công việc đối ngoại, và các Hội nghị gồm toàn thể các công dân, với những quyền hạn và nhiệm vụ khác nhau. Các quan chức xử lý công việc chính phủ, đặc biệt các quan chấp chính và pháp quan còn có quyền chỉ huy quân đội. Viện Nguyên lão bao gồm 300 thành viên, và là cơ quan có nhiều quyền thế nhất trong lịch sử của Cộng hòa La Mã. Các Hội nghị công dân thông qua luật và bầu ra các quan chức chính phủ. Hiến pháp của La Mã luôn luôn là một khái niệm cơ bản của kiểm tra và cân bằng.
Cách tổ chức nhà nước phân quyền sơ khai trong thời cổ đại được phát triển thành học thuyết ở Tây Âu vào thế kỷ 17 - 18, gắn liền với hai nhà tư tưởng lớn là John Locke và C.L. Montesquieu và sau đó là Rousseau.
- John Locke
John Locke (1632 - 1704), một nhà triết học người Anh, ông là người đầu tiên khởi thảo ra thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh về học thuyết phân quyền, và được thể hiện trong tác phẩm "Khảo luận thứ hai về Chính quyền". Về quyền lực nhà nước, ông cho rằng "chỉ có thể có một quyền lực tối cao là cơ quan lập pháp, mà tất cả các quyền lực còn lại là những phụ thuộc vào nó". Theo đó, có thể thấy Locke đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập pháp.
Ông chia quyền lực nhà nước thành các phần: lập pháp, hành pháp và liên minh. Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước, và phải thuộc về nghị viện; nghị viện phải họp định kỳ thông qua các đạo luật, nhưng không thể can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các chức vị, chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và vua không có đặc quyền nhất định nào với nghị viện nhằm không cho phép vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm vào các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua thực hiện quyền liên minh, tức là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hòa bình và đối ngoại.
- C.L. Montesquieu.
Những luận điểm phân quyền của J. Locke đã được nhà khai sáng người Pháp, C.L. Montesquieu (1689 – 1775) phát triển. Montesquieu đã phát triển một cách toàn diện học thuyết phân quyền, và sau này khi nhắc tới thuyết phân quyền người ta nghĩ ngay đến tên tuổi ông.
Montesquieu quyết liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp thời bấy giờ. Chế độ quân chủ chuyên chế là một tổ chức quyền lực phi lý. Bỡi vì nhà nước biểu hiện ý chí đặc thù với bản chất vô pháp luật.
Montesquieu nhận thấy pháp luật phải có nhiều lĩnh vực, phân ngành rõ rệt. Do đó, nếu tập trung vào một người duy nhất là tạo dựng tình trạng lạm quyền. Vì vậy, việc trừ khử hiện tượng lạm quyền chỉ có thể là tiêu diệt chế độ chuyên chế. Theo Montesquieu, một khi quyền lực tập trung vào một mối, kể cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ chuyên chế vẫn còn.
Trong tác phẩm "Tinh thần pháp luật", Montesquieu đã lập luận tinh tế và chặt chẽ tính tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực và khẳng định là trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền. Đó là "quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự". Ta có thể nhận ra sự tiến bộ trong tư tưởng phân quyền của Montesquieu so với tư tưởng của Locke, khi tách quyền lực xét xử - quyền tư pháp ra độc lập với các thứ quyền khác.
Từ đó, Montesquieu chủ trương phân quyền để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và bảo đảm quyền tự do cho nhân dân.
Montesquieu đã viết là "Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên Lão, thì sẽ không có gì là tự do nữa. Vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết".
Kết luân, theo Montesquieu, cách thức tổ chức nhà nước của một quốc gia là: "Cơ quan lập pháp trong chính thể ấy gồm có hai phần, phần này ràng buộc phần kia do năng quyền ngăn cản hỗ tương. Cả hai phần sẽ bị quyền hành pháp ràng buộc và quyền hành pháp sẽ bị quyền lập pháp ràng buộc."
Tư tưởng của Montesquieu tuy vẫn mang tính bảo thủ phong kiến, đòi hỏi đặc quyền cho tầng lớp quý tộc. Nhưng nó vẫn là nền móng cho tư tưởng phân chia quyền lực sau này, có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan niệm sau này về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức của các nhà nước tư bản.
- Rousseau
Tiếp nối Montesquieu: J.J. Rousseau, với tác phẩm "Bàn về khế ước xã hội", đã đưa ra những quan điểm rất mới mẻ và tiến bộ về sự phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Rousseau (1712 – 1778) chủ trương nêu cao tinh thần tập quyền. Nghĩa là "Quyền Lực Nhà Nước" nằm trong tay cơ quan quyền lực tối cao của toàn thể công dân trong xã hội.
Nhưng, ông lại phân chia "quyền lực nhà nước" thành quyền lập pháp và quyền hành pháp. Giao chúng vào tay cơ quan quyền lực tối cao và chính phủ là cách thức hợp lý duy nhất để bảo đảm sự hoạt động có hiệu quả cho nhà nước, cũng như ngăn chặn được xu hướng lạm quyền.
Ngoài ra, ông còn nêu lên vai trò quan trọng của cơ quan Tư Pháp trong việc bảo đảm cho sự hoạt động ổn định của nhà nước, cũng như cho sự cân bằng giữa các vế cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ và nhân dân.
Nhưng, cách phân quyền của Rousseau không giống với Locke và Montesquieu. Bởi vì ông luôn luôn khẳng định một điều duy nhất là những "bộ phận quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào quyền lực tối cao" và "mỗi bộ phận chỉ thực hiện ý chí tối cao đó" mà thôi.
C- KẾT LUẬN
Bất cứ nhà lãnh đạo nào của một Quốc Gia, đa số xuất hiện xu thế "lạm quyền và chuyên quyền" dù cho quyền lực ấy thuộc về cá nhân hay đảng phái. Do đó, để bảo đảm các quyền tự do và bình đẳng cơ bản của Công Dân; Ắt phải ngăn ngừa các hành vi lạm quyền và chuyên quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước; Tức là phải thiết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn quyền lực bằng các công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập trung quyền lực, mà là phân chia quyền lực.
Muốn hạn chế quyền lực nhà nước thì trước hết phải phân quyền, và sau đó phải làm cho các nhánh quyền lực đã được phân chia chỉ được phép hoạt động trong phạm vi quy định của pháp luật.
Đó chính là tam quyền phân lập, duy nhất có ba quyền độc lập của nhà nước là "Lập Pháp - Hành Pháp - Tư Pháp", đã được phân chia rõ ràng về quyền lực cho ba cơ quan độc lập để thi hành quyền lãnh đạo của một Quốc Gia ./.
Vivi
(Sưu Tầm)
Norway 22.7/2021
No comments:
Post a Comment